Ngũ Uẩn Dính Mắc (Upādānakkhandhā)
Saṁyutta Nikāya — Khandhavāra Vagga (Tập 3, tr. 235) 10. Puṇṇama Sutta (Trích chọn để minh họa rằng Ngũ uẩn sinh do duyên — chúng là saṅkhāra.)
Sự Sinh Ra của Ngũ Uẩn
“Bạch Tôn giả, nguyên nhân và điều kiện nào khiến uẩn sắc (rūpa-kkhandha), uẩn thọ (vedanā-kkhandha), uẩn tưởng (saññā-kkhandha), uẩn hành (saṅkhāra-kkhandha), và uẩn thức (viññāṇa-kkhandha) xuất hiện?” Bề trên bạch rằng:
- “Này Tỳ-kheo, bốn đại (mahā-bhūta-rūpa — (bốn yếu tố lớn: đất, nước, lửa, gió)) là nguyên nhân và điều kiện khiến uẩn sắc (rūpa-khandha) sinh — và uẩn sắc ấy chính là saṅkhāra (saṅkhāra — các pháp có điều kiện / cấu hợp).
- Phassa (phassa — tiếp xúc) là nguyên nhân và điều kiện khiến uẩn thọ (vedanā-khandha) sinh; uẩn thọ ấy là saṅkhāra.
- Phassa là nguyên nhân và điều kiện khiến uẩn tưởng (saññā-khandha) sinh; uẩn tưởng ấy là saṅkhāra.
- Phassa là nguyên nhân và điều kiện khiến uẩn hành (saṅkhāra-khandha) sinh — ý nói mọi thành tố tinh thần khác ngoài sắc, thọ, tưởng và thức.
- Nāma-rūpa (nāma-rūpa — (nāmā: yếu tố tâm; rūpa: sắc)) là nguyên nhân và điều kiện khiến uẩn thức (viññāṇa-khandha) sinh; uẩn thức ấy cũng là saṅkhāra.”
Sự Chấm Dứt Kiến Tướng (Sakkāya-diṭṭhi)
“Bạch Tôn giả, kiến tướng (sakkāya-diṭṭhi — (sakkāya: cái ngã cái thân; diṭṭhi: chấp kiến)) chấm dứt như thế nào?” Bề trên nói:
“Này Tỳ-kheo, trong Pháp và Luật này, một đệ tử Thánh (Ariyan) — người đã nghe, đã thấy các bậc Thánh, thông thạo Pháp Thánh, đã gặp những bậc thiện tri thức (sappurisa — (người chân chính)) và được chỉ dạy tinh thông — thì không xem sắc (rūpa) là tự ngã; không xem tự ngã là hữu sở hữu sắc; không xem sắc là trong tự ngã; cũng không xem tự ngã là trong sắc.
Cũng vậy, người ấy không xem thọ (vedanā) là tự ngã; không xem tự ngã sở hữu thọ; không xem thọ ở trong tự ngã; cũng không xem tự ngã ở trong thọ.
Không xem tưởng (saññā) là tự ngã; không xem tự ngã sở hữu tưởng; không xem tưởng trong tự ngã; không xem tự ngã trong tưởng.
Không xem các hành (saṅkhārā) là tự ngã; không xem tự ngã sở hữu hành; không xem hành trong tự ngã; không xem tự ngã trong hành.
Không xem thức (viññāṇa) là tự ngã; không xem tự ngã sở hữu thức; không xem thức trong tự ngã; không xem tự ngã trong thức.
Này Tỳ-kheo, theo cách ấy kiến tướng (sakkāya-diṭṭhi) chấm dứt.”
Sự Diệt Các Āsava (Các Mầm Nhiễm)
(Pāli Canon, Royal Thai Edition, Tập 23)
Đức Phật bảo: “Này Tỳ-kheo, sự diệt các mầm nhiễm (āsavā — (āsava: các dòng nhiễm ô/tạp nhiễm tâm)) có thể xảy ra nhờ nương vào jhāna thứ nhất, hoặc jhāna thứ hai, hoặc thứ ba, hoặc thứ tư, hoặc các cõi như không vô tận (ākāsānañcāyatana), v.v… hoặc nhờ cõi neither-perception-nor-non-perception (nevasaññā-nāsaññāyatana).
Này Tỳ-kheo, khi Ta nói ‘Sự diệt các mầm nhiễm có thể xảy ra nhờ jhāna thứ nhất’, Ta nói điều ấy trên căn cứ gì?
Trong Pháp và Luật này, một Tỳ-kheo biệt ly khỏi thú vui dục lạc… nhập và trú trong jhāna thứ nhất. Trong ngay jhāna ấy, y quán các hiện tượng hiện hữu — sắc (rūpa), thọ (vedanā), tưởng (saññā), hành (saṅkhārā), thức (viññāṇa) — như là:
- vô thường (anicca),
- là khổ (dukkha),
- là một bệnh,
- là một mụn nhọt,
- là một mũi tên,
- là khổ não,
- là một nỗi phiền não,
- là xa lạ,
- là mục nát,
- là trống rỗng,
- không phải là tự ngã (anattā).
Người ấy định tâm trên các chân lý ấy. Rồi y nghiêng tâm hướng về Bất tử (amata-dhātu), tư nghĩ: “Đây là an lạc, đây là thù thắng — sự lặng yên của mọi saṅkhāra, sự bỏ mọi chấp, sự diệt tham, sự không dính mắc, sự diệt, Niết-bàn.”
Ở lại trong jhāna thứ nhất ấy, y có thể chứng được sự hủy diệt trọn vẹn các mầm nhiễm. Nếu người ấy không đạt được sự hủy diệt trọn vẹn các mầm nhiễm trong đời này, thì y sẽ sanh ngay lập tức (opapātika — (opapātika: sanh bất ngờ/không qua thai sản bình thường)) vào cõi ấy và tại đó chứng Niết-bàn cuối cùng, không bao giờ trở lại thế gian này — vì năm kết hạ thấp (orambhāgiya-saṃyojana — (orambhāgiya: năm xiềng xích thấp)) đã tiêu hết do sự vui mừng và tín tâm nơi Pháp đó.
Đức Phật kết thúc bằng một dụ: “Này Tỳ-kheo, cũng như một cung thủ có tay nghề hay môn sinh của y, sau nhiều huấn luyện, có thể bắn xa, bắn trúng mục tiêu không lầm và làm vỡ những đích lớn — thế nên, một Tỳ-kheo nhập jhāna thứ nhất, quán sắc, thọ, tưởng, hành và thức như vô thường, khổ, trống rỗng và vô ngã, rồi xoay tâm hướng về Bất tử — vị Tỳ-kheo ấy đạt đến sự diệt các mầm nhiễm, hoặc nếu chưa đạt trong đời này, thì sẽ được sanh lên cõi thù thắng và tại đó chứng Niết-bàn cuối cùng.”